Sản xuất nông nghiệp theo xu thế phát triển bền vững ngày
nay đã được khẳng định cần thiết dựa trên cơ sở xây dựng nền nông nghiệp xu hướng
hữu cơ, đáp ứng bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó hiệu quả tình hình biến đổi
khí hậu kết hợp ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học. Chính vì vậy mà
trong thời gian gần đây, ngoài những giải pháp tiên tiến về di truyền giống,
dinh dưỡng, cơ khí, điện tử,… được đầu tư nghiên cứu và ứng dụng mạnh mẽ thì
công nghệ sinh học với đa dạng các loại chế phẩm chiết xuất tự nhiên và tổng hợp
nhân tạo cũng là một trong các lĩnh vực công nghệ được đưa vào sản xuất nông
nghiệp và mang lại nhiều mặt hữu ích.
Chế phẩm sinh học được gọi chung là Probiotics (bao hàm ý
nghĩa của từ Pro “thân thiện” và Bio “sự sống”); theo đó, chế phẩm sinh học có
thể hiểu là những sản phẩm được bào chế dựa trên nguyên lý khai thác các loài
vi sinh vật như: siêu vi khuẩn, vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn, tuyến trùng …và các chất
chiết xuất chọn lọc từ thực vật, động vật trong tự nhiên có lợi cho sự sinh trưởng
của con người, vật nuôi, cây trồng, sinh thái để đưa vào ứng dụng trong hoạt động
sản xuất, sinh hoạt, giữ gìn tài nguyên và bảo vệ môi trường sống.
Những khía cạnh lợi ích của việc sử dụng chế phẩm sinh học rất
rộng, có thể điểm qua cơ chế hoạt động tạo nên tính năng, tác dụng có lợi của
các loại chế phẩm sinh học hiện đã đưa vào sản xuất nông nghiệp để thấy được cụ
thể các mặt hiệu quả mang lại như sau:
- Tạo sự cạnh tranh đối kháng với các loại vi sinh gây hại,
điển hình như các chế phẩm vi sinh ứng dụng trong lĩnh vực chăn nuôi, thủy sản
khi đưa vào đường tiêu hóa có khả năng bảo vệ niêm mạc ruột của vật nuôi do vi
sinh vật có hại cũng cần bám vào nơi đây để lấy dưỡng chất; đồng thời các loại
vi sinh có lợi còn có tác dụng ức chế sự phát triển mật số của nhóm vi sinh có
hại nên giúp giảm sử dụng thuốc thú y, gián tiếp giúp nâng cao chất lượng và an
toàn vệ sinh nông sản. Tương tự, trong lĩnh vực trồng trọt các loại chế phẩm vi
sinh đối kháng trực tiếp với vi sinh có hại cũng được nghiên cứu ứng dụng rộng
rãi, nhiều loài siêu vi khuẩn, vi khuẩn, nấm, tuyến trùng, chất chiết xuất có
tác dụng trừ sâu, bệnh rất hiệu quả có thể thay thế một phần hoặc toàn phần thuốc
bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học vốn không tốt cho môi trường cũng như sức
khỏe người tiêu thụ do tồn dư trong nông sản.
- Thúc đẩy động vật, thực vật nâng cao sức đề kháng, các chế
phẩm chứa một số chất dẫn xuất tự nhiên hoặc một số dòng vi khuẩn, siêu vi khuẩn
có khả năng kích hoạt hệ miễn dịch của động vật, thực vật để tự nâng cao sức đề
kháng chống lại mầm bệnh và các yếu tố bất lợi của môi trường, từ đó gián tiếp
giúp giảm sử dụng các loại thuốc và hóa chất phòng, trị bệnh. Điển hình trong
chăn nuôi là vắc-xin và các chế phẩm chứa hệ vi khuẩn có tính năng kích hoạt hệ
miễn dịch của vật nuôi, còn với ngành trồng trọt là các sản phẩm được gọi chung
là chất kích kháng.
- Tăng cường các loại men, chất xúc tác cần thiết cho sự
sinh trưởng của động vật và thực vật, các chế phẩm chứa các loại men hoặc các
loại vi sinh vật chọn lọc đưa vào đường tiêu hóa của vật nuôi giúp phân giải
triệt để các thành phần thực liệu thức ăn giúp cho vật nuôi hấp thu được chất
dinh dưỡng nhiều hơn nên giúp giảm chi phí thức ăn, hạn chế triệu chứng rối loạn
tiêu hóa, giảm mùi hôi, khí độc sinh ra từ sự phân hủy phân, nước tiểu; đặc biệt
trong thủy sản việc giảm lượng thức ăn dư thừa thải ra còn gián tiếp giúp giảm
ô nhiễm môi trường nước.
- Thúc đẩy sự phân giải triệt để các hợp chất hữu cơ, các chế
phẩm chứa hệ vi sinh có khả năng tiết men phân giải các chất hữu cơ được ứng dụng
trong xử lý phân, nước tiểu của vật nuôi để tạo nguồn phân chuồng có giá trị
cao cùng lúc với giảm mùi hôi, khí độc. Cùng với tác dụng này, lĩnh vực trồng
trọt có các chế phẩm vi sinh xử lý phụ phế phẩm trở thành phân xanh trả lại
dinh dưỡng cho đất hoặc như các sản phẩm phân hữu cơ sinh học tăng cường hệ vi
sinh vật có lợi cho đất giúp giảm sử dụng phân vô cơ, giảm tồn dư các chất độc
hại trong đất và trong nông sản. Còn với ngành thủy sản, các chế phẩm xử lý chất
bẩn môi trường nước càng lúc càng được ứng dụng phổ biến đã được xem là một
trong những biện pháp thiết yếu để phòng bệnh cho tôm, cá.
- Xúc tác các phản ứng sinh hóa trong môi trường đất, một số
loại nấm và vi khuẩn có khả năng tạo ra các phản ứng chuyển hóa các chất dạng
cây trồng khó hấp thu sang dạng cây trồng có thể hấp thu đã được nghiên cứu để
đưa ứng dụng rộng rãi trên nhiều loại cây trồng giúp nhà nông khai thác nguồn
dinh dưỡng tự nhiên có sẳn, nâng cao lợi nhuận do giảm sử dụng phân bón, nhất
là phân bón vô cơ; đồng thời, còn giúp nâng cao chất lượng và giá trị thương mại
của nông sản.
- Hấp thụ các chất độc hại, mùi hôi sinh ra từ sự phân hủy
chất thải, các chế phẩm chứa các loại đá khoáng, các chất dẫn xuất hay như thực
vật thủy sinh trồng theo mô hình “ao sinh học” có khả năng hấp thụ mạnh các chất
độc hại, khử mùi được sử dụng để xử lý nước thải và rác. Ngoài ra, một số chế
phẩm chứa các chất dẫn xuất có tác dụng ổn định các yếu tố môi trường nước như
độ pH, mật độ tảo, dưỡng khí … cũng được ứng dụng phổ biến trong nuôi thủy sản.
Sử dụng các loại chế phấm sinh học đem lại rất nhiều hữu
ích, cùng lúc nâng cao giá trị nông sản và hiệu quả kinh tế cho người sản xuất;
dù vậy vẫn cần lưu ý tính năng, tác dụng chính của chế phẩm sinh học chỉ giữ
vai trò bổ sungvà hỗ trợ thúc đẩy các phản ứng sinh hóa cần thiết cho sự sinh
trưởng, khả năng chống chịu, đề kháng của cây trồng, vật nuôi hoặc phân giải
các loại chất thải, ngăn chặn phát sinh khí độc, mùi hôi vào môi trường. Nói
cách khác, chế phẩm sinh học không thay thế hoàn toàn việc cung cấp dưỡng chất,
thuốc phòng, trị bệnh cho cây trồng, vật nuôi hay các loại hóa chất sát trùng
hoặc biện pháp xử lý các loại chất thải. Hiểu được giới hạn tác dụng của chế phẩm
sinh học để có cách sử dụng phù hợp; đồng thời trên thị trường có rất nhiều chế
phẩm dạng sinh học, việc chọn lựa và sử dụng đúng mục đích và đúng cách là rất
quan trọng. Nguyên tắc chung là chỉ sử dụng những loại chế phẩm sinh học có
trong danh mục được Nhà nước cho phép lưu hành, khi chưa rõ nên tham khảo ý kiến
tư vấn, hướng dẫn của các nhà chuyên môn nhằm đảm bảo hiệu quả tác dụng và lợi
ích./.
Lương Lễ Dũng