image banner
Chào mừng bạn đến với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Tỉnh Long An
Tín Chỉ Carbon, Thị Trường Tín Chỉ Carbon, Sự Cấp Thiết Về Đào Tạo Nhân Lực Cho Thị Trường Tín Chỉ Carbon
Theo tổ chức tài chính doanh nghiệp (Corporate Financial Institution) tín chỉ Carbon là giấy phép hoặc chứng chỉ có thể mua bán, cung cấp cho người nắm giữ tín chỉ quyền phát thải một tấn carbon dioxide hoặc tương đương với một loại khí nhà kính khác.

Mục tiêu chính của việc tạo ra tín chỉ carbon là giảm lượng khí thải carbon dioxide và các loại khí nhà kính khác từ các hoạt động công nghiệp, nhằm giảm tác động của hiện tượng nóng lên toàn cầu.

Thị trường tín chỉ carbon của Việt Nam đang có tiềm năng phát triển mạnh mẽ nhờ vào các dự án giảm phát thải và bảo vệ môi trường, như Nghị định số 06/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn. Nghị định có gải thích về sàn giao dịch tín chỉ các-bon là trung tâm xử lý các giao dịch về mua, bán tín chỉ các-bon, hạn ngạch phát thải khí nhà kính và đấu giá, vay mượn, nộp trả, chuyển giao hạn ngạch phát thải khí nhà kính.

Ngày 16/8/2024 Trường Chính sách công và Phát triển Nông thôn phối hợp Báo Nông nghiệp Việt Nam và Công ty TNHH Hệ Sinh Thái VOS HOLDINGS tổ chức buổi tọa đàm với chủ đề “Tín chỉ Carbon và nguồn nhân lực cho thị trường tín chỉ Carbon”. Tọa đàm diễn ra với hình thức trực tuyến và trực tiếp tại hội trường Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn và trực tuyến qua phần mềm ZOOM Meeting với hơn 700 đầu cầu của các công ty, hợp tác xã, các cơ quan đơn vị quản lý nhà nước, các Viện, Trường, Viện nghiên cứu, các chuyên gia, nhà khoa học và các cá nhân, tổ chức liên quan khác.

anh tin bai

Chủ đề buổi tọa đàm

Mục tiêu của tọa đàm là truyền thông đến cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, nhà khoa học và người dân về phát thải khí nhà kính, tín chỉ Carbon, thị trường tín chỉ Carbon và sự cần thiết phải đào nguồn nhân lực cho thị trường tín chỉ Carbon.

GS.TS. Võ Xuân Vinh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh doanh trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh cho biết, Chính phủ Việt Nam cam kết về giảm phát thải khí nhà kính như:

Thứ nhất, Cam kết tại COP 26 (Glasgow, 2021): Cam kết giảm phát thải Metan toàn cầu (Cam kết này kêu gọi các quốc gia giảm ít nhất 30% lượng phát thải metan so với mức năm 2020 vào năm 2030. Metan chiếm 17% tổng lượng khí nhà kính toàn cầu và là tác nhân mạnh mẽ gây biến đổi khí hậu. Một lĩnh vực quan trọng với Việt Nam là sản xuất lúa, nguồn phát thải khí nhà kính lớn thứ hai sau gia súc); Tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất: Tại COP26, 141 quốc gia, bao gồm Việt Nam, đã ký tuyên bố này, công nhận vai trò của rừng trong phát triển bền vững và cân bằng phát thải khí nhà kính. Các quốc gia cam kết ngăn chặn và đảo ngược mất rừng và suy thoái đất vào năm 2030; Cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, sử dụng nguồn lực trong nước và sự hỗ trợ quốc tế về tài chính và công nghệ.

Thứ hai, cam kết tại COP 27 (Sharm El-Sheikh): Tại Hội nghị Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu lần thứ 27 (COP27), diễn ra vào tháng 11 năm 2022 tại Sharm El-Sheikh, Ai Cập, Việt Nam đã đưa ra các cam kết quan trọng nhằm đối phó với biến đổi khí hậu và thúc đẩy phát triển bền vững: Giảm phát thải khí nhà kính: Việt Nam tái khẳng định mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 (net-zero) vào năm 2050; Chuyển đổi năng lượng: Việt Nam cam kết đẩy mạnh chuyển đổi năng lượng, tăng cường phát triển năng lượng tái tạo, và giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch; Tăng cường khả năng thích ứng: Việt Nam sẽ tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, tập trung vào các biện pháp bảo vệ và phát triển nông nghiệp bền vững, quản lý tài nguyên nước, và bảo vệ các khu vực ven biển khỏi tác động của nước biển dâng; Hợp tác quốc tế: Việt Nam kêu gọi sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế, bao gồm cả tài chính và công nghệ, để giúp các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đạt được các mục tiêu về giảm phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu; Chính sách và kế hoạch hành động: Chính phủ Việt Nam cam kết sẽ thực hiện các chính sách và kế hoạch hành động cụ thể nhằm đạt được các mục tiêu cam kết, bao gồm việc triển khai Kế hoạch Quốc gia về Biến đổi Khí hậu và Kế hoạch Hành động về Năng lượng Sạch.

Thứ ba, cam kết trong khu vực ASEAN: Việt Nam đã tích cực tham gia vào các sáng kiến khu vực và quốc tế để thúc đẩy phát triển bền vững và giảm phát thải khí nhà kính, bao gồm Hợp tác Tiểu vùng Mê Kông Mở rộng (GMS) và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); Hợp tác Tiểu vùng Mê Kông Mở rộng (GMS): GMS là một sáng kiến khu vực bao gồm sáu quốc gia: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar, và Trung Quốc (các tỉnh miền Nam). Trong khuôn khổ GMS, các nước thành viên đã hợp tác trong nhiều lĩnh vực, bao gồm quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Các nỗ lực trong GMS nhằm tăng cường phát triển bền vững, đặc biệt là trong việc quản lý tài nguyên nước và rừng, cũng như giảm thiểu biến đổi khí hậu thông qua các dự án phát triển bền vững; Việt Nam là thành viên tích cực của APEC, nơi các quốc gia trong khu vực hợp tác để thúc đẩy tự do thương mại và đầu tư, đồng thời cũng đặt mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính. Trong khuôn khổ APEC, Việt Nam đã tham gia vào nhiều chương trình và dự án nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững và chuyển đổi sang nền kinh tế xanh. APEC cũng đã tạo ra các sáng kiến như APEC Climate Center và chương trình APEC Energy Efficiency, trong đó Việt Nam là một phần của các hoạt động này.

anh tin bai

hình minh họa

Thứ tư, Chiến lược Tăng trưởng Xanh của Việt Nam (Green Growth Strategy): Năm 2021, Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Chiến lược Tăng trưởng Xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, với mục tiêu giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP, hướng tới phát triển kinh tế xanh và bền vững; Các mục tiêu chính của Chiến lược là: Giảm cường độ phát thải khí nhà kính là giảm 15% cường độ phát thải vào năm 2030 và 30% vào năm 2050 so với mức của năm 2014; Phát triển năng lượng tái tạo là tăng cường phát triển các nguồn năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời, và năng lượng sinh khối. Nâng cao tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo trong tổng cung cấp năng lượng quốc gia lên khoảng 15-20% vào năm 2030, và 25-30% vào năm 2045; Giảm sử dụng năng lượng hóa thạch là việc giảm dần sự phụ thuộc vào than đá và dầu mỏ, chuyển dịch sang các nguồn năng lượng sạch hơn, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong các ngành công nghiệp và giao thông vận tải.

Thứ năm, tham gia Liên minh hành động Khí hậu Châu Á (Asia-Pacific Climate Action Alliance): Việt Nam đã tham gia vào Liên minh Hành động Khí hậu Châu Á (APCAA), một liên minh của các quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nhằm tăng cường hợp tác quốc tế trong việc đối phó với biến đổi khí hậu. Mục tiêu chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức, dữ liệu và công nghệ liên quan đến việc giảm phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu; Hỗ trợ kỹ thuật và tài chính giúp họ thực hiện các chương trình và chính sách về biến đổi khí hậu một cách hiệu quả hơn.

Thứ sáu, đối tác Năng lượng Toàn cầu (Global Energy Partnership - GEP): Việt Nam cũng là thành viên của Đối tác Năng lượng Toàn cầu (GEP), một sáng kiến nhằm thúc đẩy sự hợp tác trong lĩnh vực năng lượng bền vững và chuyển đổi sang năng lượng sạch. Các hoạt động chính của GEP là thúc đẩy chuyển đổi năng lượng và hỗ trợ phát triển chính sách.

Về công tác đào tạo và các dịch vụ liên quan thị trường tín chỉ carbon: Việt Nam cần trang bị cho các doanh nghiệp và cơ quan quản lý kiến thức về cơ chế thị trường carbon quốc tế, bao gồm cả thị trường tín chỉ tự nguyện và bắt buộc. Việc này, có thể cung cấp một nền tảng vững chắc cho Việt Nam trong việc tham gia vào các giao dịch tín chỉ carbon quốc tế. Tham gia vào các mạng lưới và chương trình đào tạo của các tổ chức quốc tế như Ecosystem Marketplace, Sustainable Development Solutions Network (SDSN),... sẽ giúp Việt Nam không chỉ nâng cao kiến thức mà còn thiết lập các mối quan hệ đối tác chiến lược. Để đào tạo và phát triển chuyên gia có khả năng thực hiện các nhiệm vụ phức tạp như đo lường, báo cáo và xác minh (MRV) lượng phát thải. sẽ giúp Việt Nam xây dựng một đội ngũ chuyên gia có khả năng đánh giá và phát triển các dự án carbon chất lượng cao.

Mạng lưới giải pháp phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc (SDSN) hoạt động dưới sự bảo trợ của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc nhằm huy động các trường đại học, tổ chức nghiên cứu, và phòng thí nghiệm quốc gia trên toàn thế giới để thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) và Thỏa thuận Paris. Tính đến năm 2022, Tổ chức SDSN có hơn 1.700 thành viên tham gia bao gồm 50 tổ chức có mạng lưới khắp 144 quốc gia trên toàn thế giới. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh là đại diện SDSN tại Việt Nam, là một trung tâm (Hub) thu hút các trường Đại học khác tham gia là thành viên của SDSN. Với các dịch vụ liên quan như: Tư vấn và phát triển dự án; Đo lường, báo cáo và xác minh (MRV); Giao dịch và quản lý tín chỉ carbon; Kiểm toán và chứng nhận; Quản lý rủi ro và tư vấn pháp lý; Đào tạo và phát triển năng lực.

Nhìn chung, trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với thách thức nghiêm trọng của biến đổi khí hậu, Việt Nam đã thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc giảm phát thải khí nhà kính, đặc biệt thông qua các tuyên bố tại COP26 và COP27. Trong việc triển khai lộ trình giảm phát thải khí nhà kính, dựa trên các chiến lược và chính sách quốc gia thì yếu tố quyết định để đạt được các mục tiêu giảm phát thải là việc phát triển nguồn nhân lực chuyên sâu trong lĩnh vực tín chỉ carbon. Vì vậy, việc tiếp tục đầu tư vào đào tạo, mở rộng hợp tác quốc tế và phát triển các dịch vụ liên quan là cần thiết để Việt Nam vừa thực hiện được các cam kết quốc tế, vừa khai thác hiệu quả các cơ hội từ thị trường tín chỉ carbon, góp phần vào nỗ lực giảm phát thải toàn cầu và thúc đẩy phát triển bền vững./.

Thu Sương
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement

image advertisement

image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1